Thú Y Sạch - Đúng Đích

Kỹ thuật xây dựng chuồng úm và chăm sóc gà con theo từng giai đoạn

Thứ Sáu - 08/01/2016 | 2

Kính thưa Quý khách hàng, Quý Bà con!

Việc nuôi úm gà con là một trong những khâu rất quan trọng và cần thiết trong quá trình chăn nuôi gà, nó quyết định đến năng suất, chất lượng đàn gà sau này. Nếu để gà con mới nở trong những tuần đầu thiếu nhiệt, gà sẽ yếu dần, tỷ lệ chết cao. Trung tâm Bảo tồn Phát triển Vật nuôi có Gen Quý hiếm - Hatthocvang Vietnam xin trân trọng giới thiệu bài viết về "quy trình làm chuồng úm cũng như chăm sóc gà đẻ trứng theo từng giai đoạn."

1.     Kỹ thuật xây dựng chuồng úm

Quây gà  làm bằng cót, tấm nhựa, bìa cát tong  hoặc dùng  lưới thép và bên ngoài bọc bằng bạt…

– Quây úm được bố trí trong phòng úm, không nên làm gần cửa ra vào tránh gió lùa. Có thể dùng các tấm mây bồ, tôn .. có chiều cao 0,5 m, quây vòng tròn có đường kính  2,8  – 3,0 m. Một quây gà đường kính như  trên nuôi được 400 gà con vào mùa hè và 500 con vào mùa đông.

– Mùa hè ngày tuổi thứ 5 thì nới rộng quây và đến ngày thứ 10 thì có thề tháo bỏ quây. Mùa đông ngày tuổi thứ 7 thì nới rộng quây và cuối tuần thứ 2 – 3 thì có thể tháo bỏ quây.

– Bố trí trong quây úm: Khay, mẹt cho gà con ăn và máng uống nhỏ được bố trí xen kẽ nhau trong quây đảm  bảo cho gà con ăn uống được  thuận  tiện. Chụp sưởi (làm bằng tôn dạng hình nón có đường kính rộng 60 đến 80cm, bên trong khoét 3 lỗ so le nhau để  lắp bóng điện, ở nóc chụp có móc để buộc dây  treo) dùng bóng điện, bóng hồng  ngoại để  cung  cấp  nhiệt  sưởi, chụp sưởi có tác dụng  hứng nhiệt và  tập trung nhiệt để tăng khả năng cấp nhiệt cho gà, ngoài ra làm chụp sưởi sẽ không làm cho nhiệt thoát ra ngoài nên tiết kiệm được điện… chụp sưởi thường treo giữa quây gà, treo cao 40 – 50 cm so với mặt nền.

* Sưởi ấm cho gà :

Chụp sưởi đặt cách mặt nền 30 – 40 cm. Điều chỉnh dụng cụ sưởi ấm cho gà tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường và tuổi gà. Trong quây gà và chuồng nuôi, nhiệt  kế  nên  đặt  tầm  ngang  lưng  gà. Gà con đủ nhiệt sẽ an uống tốt, khoẻ mạnh lớn nhanh và ít bệnh; nếu gà bị thiếu nhiệt khi úm thì sẽ an uống kém, hay mắc bệnh, nhiều gà còi cọc, tỷ lệ hao hụt cao,…

Bằng cách quan sát hoạt động của gà, ta cũng có thể đánh giá được nhiệt độ có phù hợp hay không để điều chỉnh chụp sưởi cho thích hợp.

+ Khi nhiệt độ cao quá yêu cầu : Đàn gà tỏa ra xung quanh sát vòng quây, tránh xa chụp sưởi, há mỏ để thở, uống nhiều, ăn ít.

+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít

+ Khi nhiệt độ thấp dưới yêu cầu : Đàn gà quây xung quanh chụp sưởi, tụ

đông lên nhau ngay dưới chụp sưởi, kêu nhiều, ăn uống ít

+ Khi nhiệt độ thích hợp : Đàn gà phân bố đều trong quây, ham ăn uống,

kêu ít (yên tĩnh).

+ Nếu gà tụm lại một phía trong quây : có thể bị gió lùa, cần phát hiện và

che hướng gió.

2.     Kỹ thuật chăm sóc gà con theo giai đoạn

– Cho gà ăn, uống giai đoạn úm từ 0 – 3 tuần tuổi:

+  Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà con chủng loại 1 – 21 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn   hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt. Rải mỏng, đều thức ăn lên khay ăn hoặc mẹt có độ dầy 1cm, sau đó từ 2 – 3 giờ dùng bay sắt cạo sạch thức ăn lẫn phân có trong khay đem sàng để gạt bỏ phân ra ngoài, tận thu thức ăn cũ và tiếp thêm lượt mỏng thức ăn mới để cho gà ăn. Cho  gà  ăn  tự  do  cả  ngày  đêm,  bổ  sung  thêm  thức  ăn  cho  gà  trong một ngày đêm từ 8-10 lần. Khi gà được 3  tuần  tuổi  trở đi  thay  thế khay ăn bằng máng  ăn cỡ  trung bình P30.

+ Cho gà uống nước: Dùng máng uống gallon chứa nước cho gà uống, 2 tuần đầu dùng máng cỡ 1,5-2,0 lít, các tuần sau dùng máng cỡ 4,0  lít. Đế máng uống kê  thật phẳng bằng gạch mỏng cao hơn độn  lót chuồng  từ 1cm đến 3cm tùy theo độ lớn của gà để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt xen kẽ với khay ăn. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần(sáng, chiều, tối, và giữa đêm).

– Cho gà ăn, uống giai đoạn từ 4 – 9 tuần tuổi:

+ Cho gà ăn: Dùng thức ăn gà dò chủng loại 21 – 42 ngày (nếu là thức ăn hỗn hợp viên), nếu thức ăn tự chế biến phải căn cứ vào chế độ dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn hỗn hợp để phối trộn các nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu. Nguyên liệu thức ăn phải có chất lượng tốt.

Chuyển đổi thức ăn dần cho gà ăn theo cách phối hợp sau:

·        Ngày thứ nhất 75% thức ăn cũ và 25% thức ăn mới

·        Ngày thứ hai 50% thức ăn cũ và 50% thức ăn mới

·        Ngày thứ ba 25% thức ăn cũ và 75% thức ăn mới

·        Ngày thứ tư cho ăn 100% thức ăn mới

Cho gà ăn bằng máng trung P30, sau đó chuyển dần cho gà ăn bằng máng đại P50, đổ  thức ăn vào máng có chiều cao bằng 1/2 của  thân máng, định kỳ 2 giờ  lắc máng cho  thức ăn  rơi xuống. Máng được  treo bằng dây  sao cho miệng máng  cao  ngang  lưng  gà. Mật  độ máng  ăn  cho  gà  theo  yêu  cầu:  30  con  –  40 con/máng. Cho  gà  ăn  tự  do  cả  ngày  đêm,  bổ  sung  thêm  thức  ăn  cho  gà  trong một ngày đêm từ 2 lần (sáng, tối) hoặc 4 lần (sáng, chiều, tối, đêm).

+ Cho gà uống nước: Dùng máng  uống  gallon  chứa  nước  cho  gà  uống,  dùng máng  cỡ  4,0  lít hoặc 8 lít. Để máng uống kê  thật phẳng bằng gạch cao hơn độn  lót chuồng  từ 4 cm đến 5 cm để gà không bới độn lót vào làm bẩn nước uống. Máng uống đặt với số lượng 100 con cho 1 máng. Máng uống được rửa sạch hàng ngày theo quy định của thú y, hàng ngày thay nước uống cho gà khoảng 4 lần (sáng, chiều, tối, và giữa đêm).

2. Cho gà thịt ăn, uống

Lượng nước uống đầy  đủ  cho gà hàng  ngày. Không bao giờ để  gà khát nước, máng hết nước. Nếu đàn gà nuôi mà không được uống nước trong 1 ngày thì 2 ngày tiếp theo gà sẽ không tăng trưởng được về khối lượng và sẽ chậm lớn trong 1,5 tháng sau đó. Lượng nước uống hàng ngày của gà có thể khác nhau tùy theo mùa, nhưng  trung bình  lượng nước mà đàn gà  tiêu  thụ hàng ngày gấp đôi lượng thức ăn. Do vậy, căn cứ vào tuổi của gà, lượng thức ăn ăn vào và nhiệt độ môi trường để tính lượng nước cho gà uống, đặc biệt khi pha thuốc tăng sức đề kháng, phòng bệnh, chữa bệnh cho đàn gà.

Thức ăn được cho ăn theo nhu cầu của gà. Cần chia làm nhiều đợt để theo dõi lượng thức ăn tiêu thụ, tránh để thức ăn dư thừa.

+  Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn

– Theo dõi và ghi chép đầy đủ mức tiêu thụ thức ăn hàng ngày của gà theo giai đoạn.

+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng

– Dựa trên giống gà nuôi, các lứa tuổi khác nhau  để xác định nhu cầu dinh dưỡng cho gà theo các giai đoạn cho đúng tiêu chuẩn.

– Ngoài ra chúng ta cần căn cứ vào mùa vụ để xác định nhu cầu protein, năng lượng trao đổi, vitamin và khoáng cho từng loại gà khác nhau.

– Thực tế sản xuất người ta chia thức ăn cho gà thịt được chia làm 3 giai đoạn như sau:

+ Khẩu phần thức ăn khởi động cho gà 1 – 21 ngày tuổi

+ Khẩu phần thức ăn tăng trưởng cho gà 22 – 35 (hoặc 42) ngày tuổi

+ Khẩu  phần thức ăn  vỗ béo sau 36 ngày tuổi đến xuất chuồng.

3.     Cho gà đẻ ăn, uống

. Giai đoạn đẻ (trên 19 tuần tuổi)

- Thức ăn:

+ Chế độ cho ăn: Cho ăn theo tỷ lệ đẻ của đàn gà và theo giống gà.

+ Chế độ chiếu sáng: Ổn định từ 14 – 16 giờ/ngày.

- Chọn gà lên đẻ: Chọn những gà mái lên đẻ có ngoại hình phát dục tốt biểu hiện bằng độ bóng của lông mào tích, bụng mềm, xương chậu rộng. Đối với gà trống cần chọn những gà mào thẳng đứng, to, chân cao, hai cánh vững chắc úp gọn trên lưng, dáng hùng dũng.

- Mật độ nuôi: nếu nuôi chuồng 3-5 con/m2, nếu có sân chơi 5-6 con/m2.

- Ổ đẻ

+ Phải được phân bố đều trong chuồng nuôi, số lượng phải đủ, tốt nhất 5 gà/ổ.

+ Ổ đẻ không nên để ánh sáng trực tiếp chiếu vào, ổ đẻ lót dày trấu, phôi bào, rơm rạ sạch, thường xuyên thay lót ổ đẻ (2lần/tuần) để trứng sạch hạn chế dập vỡ.

+ Thu nhặt trứng và bảo quản trứng giống.

- Quan sát, theo dõi đàn gà hàng ngày

+ Quan sát đặc điểm ngoại hình của đàn gà hàng ngày (màu lông, rụng lông, khối lượng, màu sắc mào…) để biết được các thời điểm khác nhau và các hiện tượng đẻ bất thường, từ đó thay đổi thức ăn và chế độ chăm sóc hợp lý.

+ Quan sát để loại những con gà ốm, gà không đẻ ra khỏi đàn

+ Quan sát kích thước trứng, vỏ trứng. Nếu vỏ trứng mỏng hoặc đẻ non thì phải bổ sung thêm canxi. Nếu vỏ trứng nhỏ hơn bình thường thì phải tăng thêm lượng thức ăn.

+ Cần có sổ sách ghi chép hàng ngày.

 

Biên tập: Bác sỹ Thú Y: Trần Thị Thủy và Các Kỹ sư chăn nuôi Hatthocvang Vietnam.

Facebook Twitter Google+

Ý kiến của bạn về chúng tôi, xin cảm ơn và mời bạn

Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu để được rõ nghĩa hơn.